Tôi yêu trà và uống rất nhiều loại trà

Một phần sự hấp dẫn đối với tôi đơn giản nằm ở việc pha trà, việc dừng lại sinh hoạt hằng ngày để nấu nước sôi, để ngắm trà ngấm dần cho đến khi màu nước trong chuyển qua bất cứ sắc độ nào từ màu vàng tái nhạt đến vàng hổ phách rồi đến nâu thẫm, tùy thuộc vào loại trà mà tôi đang pha. Và kế đến là cái thú được uống hộp trà đầu tiên!

Trà thì tao nhã hơn cà phê và hẳn nhiên là thú vị hơn nước, lành mạnh và tinh tế hơn Xô-đa. Đó là một thức uống hoàn hảo – có thể được dùng thường xuyên với số lượng lớn một cách thích thú mà không cảm thấy tội lỗi.

Trà, bằng tất cả sự phức tạp của nó, đem lại một cảm giác vừa yên ổn vừa tỉnh thức về sức khỏe và sự thỏa mãn. Chả trách mà những chiếc lá này, những chiếc lá được phát hiện ở Trung Quốc từ rất lâu rồi, đã làm thay đổi cả thế giới.

Trà được sản xuất hầu như ở khắp mọi nơi trên trái đất này, và có những loại trà phù hợp với từng khoảng thời gian trong ngày cũng như mỗi tâm trạng của con người. Tôi bắt đầu buổi sáng với Hồng Trà Shan Tuyết Hương Xuân hoặc Trà Xanh Shan Tuyết Sương Mai. Khi cảm thấy thích phiêu lưu, tôi sẽ uống Bạch Trà Mây. Tôi nhấm nháp hương vị nhẹ nhàng thanh dịu của Bạch Trà Kim cả ngày.

tôi yêu trà

 

Nhưng thỉnh thoảng cũng thay bằng trà xanh pha với chút gừng để giải cảm. Vào những dịp đặc biệt tôi lại mở một thứ gì đó như Bạch Trà Tiên. Chiều muộn, tôi sẵn sàng thưởng thức hương vị trong lành, tươi mát của một loại trà trắng như Trà Móng Rồng.

 

 

 

Tôi không đơn độc trong tình yêu trà

Người Thổ Nhĩ Kỳ được xếp hạng cao nhất về số lượng trà tiêu thụ tính theo đầu người trên thế giới (dựa vào thống kê năm 2004), mỗi năm trung bình một người uống 2,5kg trà (tức là 5,51 pound)- tương đương với hơn một ngàn cốc! Sau Thổ Nhĩ Kỳ là Liên Hiệp Vương Quốc Anh, với 2,2 kg (4,85 pound) hàng năm, và Ma-rốc 1,4 kg (3,09 pound).

Người trên khắp thế giới rất nghiêm túc với trà của họ, họ cũng nên như vậy vì trà là một ngành kinh doanh lớn có quá khứ phong phú và đa dạng. Từ thời Cổ đại ở Trung Quốc khi những lá trà tươi được pha tạo thành một hỗn hợp thô, đắng dùng làm thuốc, trà đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con người – mặc dù phải mất nhiều thế kỷ thì các phương pháp chế biến mới được khám phá và các phương pháp này đã thay đổi vị của trà từ đắng sang thơm ngon.

Trong nhiều thế kỷ, chỉ có người Trung Quốc biệt được điều kỳ diệu của trà, nhưng cuối cùng thói quen uống trà đã lan khắp châu Á, và rồi khắp thế giới. 

tôi yêu trà

 

Trà đi với những thương nhân, những người đã nhận ra nó là một mặt hàng phổ biến; trà đi với những người lữ hành, những người hiểu rõ giá trị của một tách trà hàng ngày trong suốt những cuộc hành trình dài; và đặc biệt là trong giai đoạn lịch sử đầu tiên của nó, trà đi với các nhà nghiên cứu và tu sĩ. 

Bởi vì việc uống trà làm dịu tinh thần nhưng vẫn giữ cho người ta được nhanh nhẹn và tỉnh thức, các tu sĩ Phật Giáo thường sử dụng trà như một công cụ thiền tập. Khi các tu sĩ đi từ nước này sang nước khác, giảng dạy về Phật Giáo và thiền, họ thường mang theo trà bên mình. Và thế là thói quen uống trà bắt nguồn từ Trung Quốc lan khắp Đông Nam Á và xa hơn nữa. Các tu sĩ giới thiệu trà tới nước Nhật lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 6; nhưng mãi đến thế kỷ thứ 8 việc canh tác trà mới bắt đầu và trà mới trở thành một phần quan trọng trong đời sống Nhật. Suốt thế kỷ 15, các trà sư ở Nhật phát triển những nghi thức và chủ nghĩa tượng trưng về việc phục vụ trà mà kết quả là các nghi thức trà đạo Nhật Bản, ngày nay những nghi thức đó vẫn còn được thực hành một cách tao nhã. Thành phố đầu tiên của châu Âu nếm mùi trà là Amsterdam vào những năm đầu tiên của thế kỷ 17. Thoạt tiên, trà được xem như một thứ hàng mới lạ không hơn không kém dù là một thứ hàng rất đắt tiền. Trà vẫn chưa đến với Luân Đôn cho đến nửa thế kỷ nữa, nhưng một khi người Anh tìm thấy hương vị của trà.

trà và ngồi thiền

 

LỊCH SỬ CỦA TRÀ

Câu chuyện về trà là câu chuyện tóm tắt về loài người, có lẽ chỉ ngắn gọn đủ để đựng vừa trong một chén trà.

Nó bao gồm những gì tốt đẹp nhất mà cũng tồi tệ nhất của việc chúng ta là ai và chúng ta làm gì.

Trong suốt lịch sử lâu dài của mình, trà đã được sử dụng như một loại thuốc men, như một công cụ trợ giúp cho thiền định, như tiền tệ, như của đút lót và như một phương tiện để kiểm soát các cuộc nổi loạn. Nó đã từng là tác nhân gây ra những cuộc chiến tranh và xung đột toàn cầu. Nó cũng là lý do cho các buổi tiệc, các cuộc họp mặt gia đình và các sự kiện của xã hội thượng lưu. Tóm lại, trà đã chạm đến và thay đổi cuộc sống của chúng ta theo cách mà không thứ đồ uống nào khác làm được, trà kết nối tất cả chúng ta từ người công nhân đến các nhà sư, từ người hái trà đến các vị hoàng đế, từ người Anh đến người Trung Quốc đến tôi. và các bạn.

Khi tôi ngồi và nhâm nhi thêm một tách trà, tôi hy vọng rằng câu chuyện về trà sẽ dạy chúng ta những bài học về nhân loại và lòng tốt của con người, rằng chúng ta sẽ thấy trà không chỉ đơn thuần thay đổi thế giới, mà còn thay đổi bản chất của loài người.

TỪ BỤI TRÀ ĐẾN TÁCH TRÀ

“Ôi trà! Ôi lá, bứt từ cành cây thiêng liêng! Ôi thân, món quà sinh ra từ những vị thần vĩ đại! Miền hoan lạc nào sinh ra người?” – Pierre Daniel Huet (1630-1721), học giả người Pháp

Sự kỳ diệu của trà được ngụy trang khéo léo, vì những chiếc lá tạo ra một trong những loại đồ uống ngon nhất đó trông không lôi cuốn hơn là của nhiều loại cây khác. Nhưng nếu được chọn đúng lúc và được chế biến đúng cách, được đóng gói và bảo vệ chống lại độ ẩm, nấm mốc và các tạp chất khác, sau đó được pha chế cẩn thận, những chiếc lá này tạo ra một loại thức uống không giống bất kỳ thứ nào khác.

Trà là một đồ uống có lịch sử lâu đời và được trồng nhiều nơi khác nhau trên thế giới. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi một số lượng lớn các thuật ngữ khó hiểu được sử dụng để miêu tả chính cây trà và các phương pháp chế biến trà trong suốt hai nghìn năm qua. 

Tất cả các loại trà đều đến từ một loài thực vật duy nhất có tên khoa học là Camellia sinensis, thuộc họ Theaceae. Họ này cũng bao gồm các cây mọc bụi khác có giá trị làm vườn, chẳng hạn như cây trà kiểng Franklinia và Steuoartia. Mặc dù tên chính thức của trà theo thực vật học là Camellia sinensis, những cây trà đôi khi vẫn được tìm thấy dưới nhiều cái tên cổ lỗ khác, bao gồm Thea viridis, Theo sinensis, Thea bohea, Camellia theifera, Camellia thea và Camellia bohea.

Trà Camellia sinensis là một loại cây mọc bụi thường xanh, sản sinh ra những bông hoa nhỏ thơm với cánh trắng và vô số nhụy vàng. Các nhà thực vật học đã chia loài này (sinensis) thành hai giống khác nhau, sinensis và assamica. Trà Camellia sinensis thuộc chủng sinensis là thực vật bản địa ở phía tây Vân Nam, Trung Quốc và đã được biết đến trong nhiều thế kỷ (hoặc có lẽ là thiên niên kỷ) trước khi giống assam được phát hiện Camellia sinensis thuộc chủng Assamica là thực vật và địa ở vùng Assam của Ấn Độ và Miến Điện, Thái – Campuchia, Việt Nam và miền nam Trung Quốc.

Một cây trà có thể được gọi là cây thân mộc hoặc mọc bụi tùy vào từng trường hợp. Trong điều kiện thuận lợi, một cây trà sẽ phát triển với kích thước của cây thân mộc. Trong canh tác, cây trà được cắt tỉa để có kích thước của cây mọc bụi. 

 

rừng chè shan tuyết

Ở phần lớn các vùng, trà chất lượng tốt nhất vẫn được hái bằng tay, mặc dù máy gặt cơ khí đang ngày càng trở nên phổ biến. Công nhân thu hoạch lá trà theo truyền thống được gọi là phu hái trà. Một phu hái trà có kinh nghiệm có thể hái được 35 kilôgam (66 đến 77pound) trà mỗi ngày. Đối với trà chất lượng hảo hạng, chỉ hái lá búp đầu tiên và được cho vào mô, cái giỏ người phu hái trà mang trên lưng. Dù lá của mỗi cây trà mọc bụi có thể được thu hoạch từ ba đến năm lần trong vỏn vẹn một năm, nhưng chất lượng của lá trà khác nhau tùy theo mùa chúng được thu hoạch.

THU HOẠCH VÀ CHẾ BIẾN TRÀ

Các phương pháp chế biến cho ra những loại trà khác nhau tùy theo mong muốn – trà trắng, trà xanh, ô long hoặc trà đen. Mỗi bậc thầy về trà, cũng giống như tất cả những bậc thầy về rượu vang, lại có cách độc đáo riêng để tạo ra một sản phẩm đặc biệt, nhưng nhìn chung, các bước cơ bản được thực hiện để biến lá trà thành trà uống được là tương tự nhau. Tuy nhiên, không phải mọi bước đều cần thiết để chế biến từng loại trà. Ví dụ, trà đen bao gồm mọi công đoạn, trong khi trà trắng chỉ bao gồm một số.

Sau khi chồi và lá trà được hái, chúng được mang về từ ngoài đồng trong vòng hai đến ba giờ đồng hồ để có loại trà chất lượng tốt nhất. Nếu những chiếc lá hái bị thâm, không được chăm sóc quá lâu hoặc bị để quá nóng, các thành tế bào trong lá sẽ bị phá vỡ và quá trình oxy hóa bắt đầu, dẫn đến một hương vị đắng, khó chịu. Đây hẳn là điều những người đầu tiên uống trà đã trải qua, khi họ chỉ hái lá và cho trực tiếp vào nước sôi khiến cho quá trình oxy hóa bắt đầu ngay lập tức. Cũng như nhiều loại đồ uống khác, bao gồm cà phê và rượu vang, hương vị của trà đã được nâng cao rất nhiều bởi sự phát triển của các phương pháp chế biến.

 

Những chiếc lá mới hái có thể trải qua một hoặc nhiều quá trình sau đây, những phần của thứ được gọi là phương pháp chế biến trà chính thống:

1. Làm héo

Lá và chồi tươi, xanh được làm mềm bằng cách khiến cho chúng héo đi. Những chiếc lá được đặt trên giá đỡ trong một căn phòng lớn, được sưởi ấm, hoặc đôi khi chỉ đơn giản là được để khô tự nhiên dưới ánh nắng mặt trời. Mục đích của việc làm héo gồm hai điều: Đầu tiên là khiến cho một phản ứng sinh hóa xay ra, vì tinh bột trong lá bắt đầu chuyển thành đường Thay đổi thứ hai là về mặt vật lý, vì độ ẩm của lá sẽ giảm từ 50 đến 80 phần trăm. Quá trình làm héo có thể được thực hiện trong khoảng từ 10 đến 24 giờ, hoặc nếu là trà trắng đã qua chế biến thì chỉ mất khoảng 4 hoặc 5 giờ.

Nếu không được làm héo, lá trà sẽ tạo ra một vị đắng, khó chịu. Trong hàng trăm năm, người ta đã kiểm nghiệm tiến độ của quá trình làm héo chỉ bằng cách bóp một nắm lá trà để xem chúng cứng hay mềm thế nào. Ngày nay, các phép đo chính xác hơn có sẵn ở dạng máy NIR (cận hồng ngoại) , các máy này đo độ ẩm tức thời, đọc mười lần mỗi giây.

Độ ẩm mong muốn thay đổi theo từng vùng trồng trà và phụ thuộc vào đặc điểm của lá mọc ở một khu vực cụ thể. Ví dụ, các trà sự ở vùng Assam của Ấn Độ thích lá trà héo mềm, với độ ẩm từ 65 đến 75 phần trăm. Còn ở Sri Lanka, các trà sự thích lá trà héo cứng lá khô hơn) với độ ẩm từ 50 đến 60 phần trăm.

2. Vò trà

Sau khi được làm héo, lá trà được cuộn lại, bằng máy hoặc (ngày càng hiếm) bằng tay. Điều này phục vụ cho việc xem lá trà và vò chúng, giải pháp nhựa cây và để lá trà tiếp xúc với oxy, kích thích quy trình lên men. Trong một số nhà máy chế biến trà, lá được và sau đó được rây qua các lớp sàng khác nhau để sắp xếp theo kích cỡ. Các mẩn lá lớn hơn có thể được vò lần thứ hai hoặc ba để xe và tách nhỏ chúng đủ cho công đoạn tiếp theo. Một công đoạn vò trà thường tiêu tốn khoảng hai giờ đồng hồ.

3. Oxy hóa

Đây là phần quan trọng nhất của quý trình chế biến vì trong giai đoạn này, người ta xa được hương vị và giá trị của trà. Trà đen hay còn gọi là hồng trà sẽ bị oxy hóa gần như hoàn toàn, trong khi trà xanh và trắng hoàn toàn không bị oxy hóa.

Lá trà đã vò được đặt trên các khay và trải rộng thành một lớp có độ dày từ ba đến sáu cm (một đến hai inch), sau đó để ở nơi mát mẻ, ẩm ướt để oxy hóa trong một đến ba giờ đồng hồ. Phản ứng hóa học trong lá làm cho lá nóng lên. Điều chủ yếu là phải dừng lại quá trình oxy hóa ở đỉnh điểm của phản ứng này để có được hương vị trà tốt nhất. Nếu nhiệt độ quá cao, lá trà sẽ có vị khét; nếu quá thấp, quá trình lên men sẽ dừng lại, dẫn đến dư vị kim loại. Trong quá trình oxy hóa, màu sắc của lá chuyển từ xanh sang đồng, và mùi thơm, hương vị cũng như màu sắc cuối cùng của trà được xác định.

vò trà

4. Sấy khô, hoặc hút ẩm

Lá trà đã oxy hóa được làm khô bằng không khí nóng trong một máy sấy lớn và trên một băng chuyền, ở nhiệt độ khoảng từ 85 đến 88 độ C (185 đến 190,4 độ F). Việc này nhằm nhanh chóng ngăn chặn quá trình lên men, và lá trà màu đồng chuyển sang màu nâu thẫm hoặc đen đặc trưng. Thời gian sấy cũng rất quan trọng vì nếu lá cây giữ quá nhiều hơi ẩm (hơm 12 phần trăm), chúng có thể bị nấm mốc. Nếu được làm khô quá nhiều (độ ẩm dưới 2 đến 3%), chúng sẽ tạo ra một thứ trà có vị khét hoặc không có hương vị.

5. Xếp hạng, hoặc phân loại

Lá trà khô được tái thành các hạng khác nhau, tùy thuộc vào kích thước của mẫu lá. Các loại khác nhau bao gồm trà lá nguyên, trà lá gãy, trà vụn và trà bụi. Nhìn chung, là nguyên (bao gồm chồi non và nụ) tạo ra loại trà có chất lượng tốt nhất trong khi đó, trà vụn và trà bụi thường được sử dụng để làm thành những loại trà pha nhanh trong túi lọc.

“Uống một tách trà hàng ngày chắc chắn sẽ làm người bán thuốc chết đói”

– Ngạn ngữ Trung Quốc

Một số sự kết hợp của các quy trình này được sử dụng để tạo ra từng loại trong bốn giống trà chính. Trong mỗi giống trà, có vô số chủng loại và nhãn hiệu được đặt tên. Trà hỗn hợp được chế biến bằng cách kết hợp các chung loại khác nhau của cùng một giống. Ví dụ, “trà hỗn hợp điểm tâm” pha trộn nhiều loại trà đen khác nhau.

+ Trà đen (Hồng trà): Lá trà trải qua tất cả năm công đoạn chế biến và bị oxy hóa gần như hoàn toàn.

+ Trà Ô Long: Lá trà được làm héo và vò, sau đó được oxy hóa một phần (ở bất cứ mức độ nào từ 10 đến 80 phần trăm, nhưng thường là khoảng 60 phần trăm), được sấy và phân loại.

+ Trà xanh: Lá được làm héo, sau đó được vò. Trà càng nhỏ vò càng được và chặt, hương vị sẽ càng đậm đà hơn. Ví dụ, loại trà xanh được gọi là thuốc súng bao gồm những viên lá trà nhỏ và chặt, khá đậm đà.) Sau khi vò, lá trà được sấy ngay lập tức để ngăn ngừa oxy hóa. Ở Trung Quốc, lá trà được làm nóng bằng cách rang hoặc sao. Ở Nhật Bản, lá trà thường được hấp. Cả hai quy trình đều có kết quả là trà xanh nhưng mang hương vị khác nhau. (Hãy xem xét sự khác biệt về hương vị giữa hành hấp và hành nướng). Trà xanh Nhật Bản có vị thảo mộc hoặc thực vật. Trà xanh Trung Quốc thiên về huong vị cam quýt hoặc khói.

+ Matcha: Là một loại trà xanh được nghiền thành bột, ra đời vào thế kỷ thứ 15. Hiện nay, nó vẫn được sử dụng trong trà đạo của Nhật Bản.

+ Trà trắng. Đây là loại trà ít qua chế biến nhất trong tất cả các loại trà. Hội đồng Trà của Hoa Kỳ đang đi đầu trong nỗ lực phát triển một tiêu chuẩn quốc tế cho trà trắng. Họ đã đề nghị những tiêu chuẩn sau: Trà được làm từ nụ thu hoạch trong vụ đầu tiên hoặc nụ và một lá, hong khô ngoài trời hoặc sấy trực tiếp Khi sấy, lá trà được làm nóng bằng các phương tiện cơ học). Lá trà dùng để chế biến ra loại trà trắng không trải qua đoan bị làm héo, lên men hoặc vỏ và nó tạo ra chất lỏng có màu vàng tái hoặc trong. Các hai dòng bạch trà nổi tiếng nhất là Bạch Trà Kim và Bạch Trà Mẫu Đơn ( hay còn gọi là Bạch Trà Mây).

XẾP HẠNG TRÀ

Có bốn loại trà đen: nguyên lá, lá gãy, vụn và bụi khác nhau về chất lượng. Hai loại sau được coi là kém chất lượng hơn và được sử dụng để tăng khối lượng các loại trà đắt tiền hơn lên, hoặc để làm trà túi lọc hay trà bột uống liền. Không phải tất cả các sản phẩm trà đều có ghi xếp hạng của trà, nhưng nếu có, thì những điều sau đây sẽ giúp bạn xác định chất lượng trà bạn đang mua.

TRÀ SHAN TUYẾT VIỆT NAM – SHAN SHOW TEA

Trà shan tuyết được coi là một loại trà chất lượng cao. Trà shan tuyết được làm từ cây chè sống trên núi cao >2.000 mét của dãy Tây Côn Lĩnh loại búp 1 tôm chồi non mới nhú là tốt nhất, được chế biến bằng cách sử dụng chồi là chủ yếu. Nó tạo ra một thứ nước trà thượng hạng nhất.

chè shan tuyết

 

“Có đầy thơ và tình cảm cao thượng trong một két trà.”

— Ralph Waldo Emerson (1803-1882)

HUYỀN THOẠI VỀ TRÀ VỚI CÔNG DỤNG TUYỆT VỜI VỀ MẶT Y HỌC

Vào thế kỷ thứ 4, trà là một phần cuộc sống hàng ngày của người Trung Quốc. Tuy nhiên, người ta không uống trà cho vui, mà vẫn tiếp tục sử dụng nó với giá trị như một loại thuốc. Các phương pháp chế biến lá trà để tạo ra loại thức uống có hương vị vẫn còn trong tương lại xa, và người dân Trung Quốc thế kỷ thứ 4, thứ 5 đã phải đánh vật để uống được trà đắng. Thiếu một muỗng đường để giúp thuốc dễ nuốt, họ đã cố gắng che giấu vị đắng bằng tất cả các loại phụ gia, bao gồm hành, gừng, muối và cam. Rõ ràng, các phụ gia này đã không là ngon miệng hơn. 

Ngoài việc dùng để uống, thỉnh thoảng trà cũng được dùng để ăn như một loại rau, hóa chí được sử dụng như thuốc hút hoặc bôi bên ngoài một loại thuốc đắp.

Trà, một thức uống đắng, được sử dụng để chữa bất kỳ chứng bệnh nào bao gồm thị lực kém, mệt mỏi, thí khớp, bệnh ngoài da (bị thương và loét), cùng các vấn đề về thận và phổi. Nó cũng được coi là hữu ích để giữ tỉnh táo và cải thiện tiêu hóa.

Các tác giả của Thần Nông Thảo Dược Kinh đã thể hiện rõ ràng rằng trà được coi trọng như một phần quan trọng trong được thư của họ, khẳng định rằng trà sẽ làm nhẹ bớt các vấn đề gây ra bởi khối u, các bệnh về bàng quang và lở loét hoặc áp xe ở đầu. Uống trà còn hơn cả chữa bệnh. 

Rõ ràng các tác giả của Thảo Dược Kinh Điển tin rằng uống trà cũng có tác dụng ngăn ngừa bệnh tật và các vấn đề xã hội!

 Uống trà theo thói quen có thể làm dịu tâm trí và mang lại lợi ích cho khí công, tăng sức chịu đựng và giữ gìn sự tươi trẻ. Trà tốt hơn rượu bởi vì nó không dẫn đến say, nó cũng không khiến một người đàn ông nói những điều dại dột và rồi ăn năn lúc tỉnh táo. Nó tốt hơn nước do nó không mang theo bệnh. Nó cũng không hóa thành chất độc giống như nước khi chứa những thứ thối rữa.

chè shan tuyết

 

Đã từ lâu những người sành uống trà đều luôn tìm kiếm những phẩm trà shan tuyết cổ thụ để thưởng thức. Vì hiện nay, diện tích trồng chè shan tuyết cổ thụ không còn nhiều trên đất nước ta, vì vậy sản lượng trà shan tuyết cổ thụ rất quý hiếm. Để đánh giá một đơn vị, cửa hàng bán bạch trà shan tuyết cổ thụ ngon thì các sản phẩm của họ cần đạt các yêu cầu sau:

1.  Trà shan tuyết phải cho hương vị thanh nhẹ, dễ chịu,vị ngọt thanh mát như gió mát lành thơm ngọt của hoa cỏ buổi sáng, hàm lượng dinh dưỡng và vi chất cao. Khi uống trà shan tuyết thì sẽ có một luồng hương thơm nhè nhẹ từ khoang miệng lên tới khoang mũi và hương thơm đó sẽ lưu lại khá lâu.
2.   Nguồn cây chè shan tuyết phải được trồng tự nhiên không sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật.
3.   Sản phẩm trà shan tuyết phải đạt tiêu chuẩn trà sạch, trà hữu cơ có giấy chứng nhận đầy đủ.
4.   Trà phải pha được nhiều nước, từ 5-6 nước hương vị vẫn ngon.

Hạnh Trà – chuyển cung cấp sản phẩm trà shan tuyết cổ thụ chính hãng tốt lành từ Tây Côn Lĩnh, Hà Giang.

Vén mây ngàn tìm đến núi thiêng Tây Côn Lĩnh hùng vĩ, chúng tôi tìm đến những cây chè shan tuyết cổ thụ đang ẩn mình trong sương gió, bén rễ chốn thâm sơn cùng cốc, chắt chiu tinh từng tinh khí của đất trời, kết tụ tinh hoa của suối nguồn, mây bạc trong từng cánh lá trà để tạo ra các phẩm trà xanh shan tuyết tuyết cổ thụ tốt lành trao gửi đến bạn. Hạnh Trà có các sản phẩm trà xanh shan tuyết cổ thụ ngon nhất được trồng từ vùng chè shan tuyết cổ thụ Hà Giang với tiêu chuẩn vùng chè hữu cơ Quốc Tế. Các lá chè shan tuyết được thu hái thủ công và chế biến theo tiêu chuẩn HACCP – FAO đạt chất lượng về vệ sinh an toàn thực phẩm. 

Các sản phẩm trà shan tuyết của Hạnh Trà được tuyển chọn tỉ mỉ kỹ càng, nâng niu từ khâu chăm sóc, hái trà đến đóng gói đều làm thủ công 100% và tuyệt nhiên an toàn, chứa đựng nhiều nhất tinh tú của trời đất. Nếu bạn đang cần mua sản phẩm trà shan tuyết ngon, hoàn toàn tự nhiên, muốn trải nghiệm những phẩm trà cao cấp vẹn nguyên tinh khí của đất trời, hãy liên hệ với Hạnh Trà nhé. Hotline: 0989370483